Đồng bằng sông Cửu Long – một vùng đất phồn thịnh và đầy tiềm năng kinh tế, nằm giữa dòng sông sôi động và các cánh đồng mênh mông. Với cảnh quan thiên nhiên tuyệt đẹp, hệ thống sông ngòi nước và đất đai phong phú, đồng bằng sông Cửu Long là vùng kinh tế trọng điểm của đất nước, là thiên đường đầu tư bất động sản.
Với tiềm năng kinh tế vượt trội, đồng bằng sông Cửu Long là một trong những khu vực phát triển quan trọng của Việt Nam. Nông nghiệp, thuỷ sản, công nghiệp và du lịch là những ngành công nghiệp chủ đạo, tạo ra nguồn lực kinh tế quan trọng cho khu vực này. Nhưng để khai thác hết tiềm năng của đồng bằng sông Cửu Long, chúng ta phải đối mặt với những rào cản và thách thức không nhỏ.
Bài viết sau đây, Sen Vàng xin chia sẻ những thách thức mà vùng đất đồng bằng sông Cửu Long phải đối mặt.
Đồng bằng sông Cửu Long, còn được gọi là Miền Tây Việt Nam, là một vùng đất địa lý độc đáo và đầy tiềm năng kinh tế nằm ở phía Nam của Việt Nam. Với diện tích rộng lớn, trải dài qua 13 tỉnh thành phố, bao gồm An Giang, Bến Tre, Cà Mau, Cần Thơ, Đồng Tháp, Hậu Giang, Kiên Giang, Long An, Sóc Trăng, Tiền Giang, Trà Vinh, Vĩnh Long và Bạc Liêu, đồng bằng sông Cửu Long tạo thành một hệ thống mênh mông của sông, kênh rạch và đồng lúa.
Vùng đồng bằng sông Cửu Long có nền kinh tế phát triển nhanh chóng, với sự đóng góp lớn từ ngành nông nghiệp, thủy sản và công nghiệp chế biến. Sự phát triển này tạo ra nhiều cơ hội cho thị trường bất động sản trong khu vực.
Giữ vị thế hết sức quan trọng cả về chính trị, kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng, trong giao thương với các nước ASEAN, Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) đang được Chính phủ chú trọng và ưu tiên đầu tư phát triển, nâng cấp hệ thống kết cấu hạ tầng, thu hút mạnh nguồn vốn đầu tư trong và ngoài nước.
Với sức bật từ hạ tầng và du lịch, Đồng bằng sông Cửu Long được đánh giá có nhiều nội lực để phát triển bất động sản trong thời gian tới.
Theo Nghị quyết số 78/NQ-CP ngày 18/6/2022 của Chính phủ ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 13-NQ/TW ngày 02/4/2022 của Bộ Chính trị về Phương hướng phát triển kinh tế – xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đặt ra nhiều mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể cũng đặt ra 4 nhiệm vụ sau:
Thứ nhất, Quán triệt, tuyên truyền, tạo sự thống nhất, đồng thuận của xã hội trong xây dựng, tổ chức thực hiện các chương trình, kế hoạch hành động thực hiện Nghị quyết số 13-NQ/TW của Bộ Chính trị.
Thứ hai, Tập trung, thực hiện tốt công tác hoàn thiện thể chế, chính sách phát triển và đẩy mạnh liên kết vùng.
Thứ ba, Hoàn thiện thể chế phát triển, nâng cao chất lượng và sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực, lao động có kỹ năng, đáp ứng nhu cầu nhân lực phục vụ cho phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bằng sông Cửu Long trong bối cảnh hội nhập quốc tế và Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
Thứ tư, Nâng cao hiệu quả hoạt động của Hội đồng điều phối vùng giai đoạn 2020 – 2025, chủ động tham mưu, đề xuất với Thủ tướng Chính phủ về cơ chế, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chương trình, đề án, nhiệm vụ, dự án có quy mô vùng, có tính chất liên kết vùng và phát triển bền vững đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu
Phát biểu tại diễn đàn Mekong Connect 2022 , Phó chủ tịch thường trực Quốc hội Trần Thanh Mẫn cho rằng “ Vùng Đồng bằng sông Cửu Long đã và đang đối diện nhiều thách thức lớn nằm ở ba phương diện kinh tế, xã hội và môi trường”
Về phương diện kinh tế, thách thức của ĐBSCL nằm ở ba vấn đề xuất khẩu gạo, nền nông nghiệp tụt hậu và vốn đầu tư.
Với vị trí đắc địa, ĐBSCL được giao sứ mệnh là “Rương lúa Việt Nam”, đảm bảo an ninh lương thực quốc gia, chính sách kiên quyết giữ đất lúa đã giúp Việt Nam xóa đói và trở thành quốc gia xuất khẩu gạo hàng đầu, nhưng lại không giúp Việt Nam trở nên thịnh vượng.
Thứ hai, do tụt hậu về hiện đại hóa, nông nghiệp ĐBSCL vẫn chủ yếu dựa vào kinh tế hộ gia đình, diện tích đất canh tác manh mún, nhỏ lẻ là trở ngại không nhỏ cho việc chuyển dịch trọng tâm từ sản xuất sang nông nghiệp. Khoảng một nửa diện tích vẫn được canh tác độc canh lúa do tài nguyên đất không được phân bổ hiệu quả.
Thứ ba, nguồn vốn đầu tư có hạn. Tỷ lệ vốn đầu tư vào ĐBSCL thấp hơn nhiều so với GDP và dân số, thu chi ngân sách nhà nước bình quân đầu người ở ĐBSCL cũng dưới mức trung bình của cả nước. Do đó dù có nhiều tiềm năng và lợi thế nhưng ĐBSCL vẫn chưa tạo được cho mình một bước tiến mạnh mẽ và nổi bật.
Về phương diện xã hội, thách thức nằm ở vấn đề thiếu việc làm ở nông thôn. Tỷ lệ thiếu việc làm trong độ tuổi lao động của ĐBSCL năm 2020 là 3,47%, cao thứ hai toàn quốc, chỉ sau Tây Nguyên; tỷ lệ thiếu việc làm ở khu vực nông thôn ĐBSCL cao gấp đôi so với khu vực thành thị (3,97% so với 1,87%).
Tiếp đến là tình trạng di cư, sự chênh lệch về mức sống và cơ hội việc làm đã dẫn đến các luồng di cư từ ĐBSCL đến các đô thị và khu công nghiệp của vùng TP.HCM. Số lượng di cư 10 năm gần 1,1 triệu người, lớn hơn dân số của một tỉnh trong vùng và tương đương với số tăng dân số tự nhiên của vùng. Đây có thể coi là một con số rất đáng báo động.
Lý do thứ ba là nghèo đói. Năm 2019, thu nhập bình quân đầu người ở ĐBSCL là 3,9 triệu đồng, thấp hơn mức bình quân chung của cả nước là 4,2 triệu đồng.
Thứ tư, vốn tri thức và tay nghề của người lao động còn thấp.
Về môi trường, vấn đề đầu tiên là tác động của thượng nguồn sông Mekong. Các công trình thủy điện ở thượng nguồn giúp giảm đáng kể lượng bùn cát bị giữ lại trong các hồ chứa. Điều này đã gây ra tình trạng xói lở bờ sông, thoái hóa đất, nước mặn từ biển tràn vào và hơn một nửa diện tích tự nhiên đã bị nhiễm mặn.
Nguyên nhân thứ hai là suy giảm tài nguyên nước. Hệ thống thủy điện đầu nguồn sông Mekong đã tác động đến sông Mekong, hạ thấp mạnh mực nước sông Mekong và phá hủy hệ sinh thái hạ lưu sông. Theo ThS Nguyễn Hữu Thiện, chuyên gia nghiên cứu độc lập về sinh thái vùng ĐBSCL, nhận định nước sông Mekong mang lại nhiều tiêu cực. Như việc xả lũ trong mùa khô làm cho dòng chảy lũ bị yếu đi, không còn đủ sức mạnh để tải phù sa, cát về ĐBSCL nữa. Việc tích nước mùa lũ cũng làm biến mất mùa lũ, đất đai bạc màu, biến mất nguồn thủy sản tự nhiên mùa lũ. Thứ ba, việc xả lũ trong mùa khô từng đợt làm cho mực nước biến động bất thường, làm hệ sinh thái bị rối loạn. Thứ tư, việc xả nước giúp đẩy hạn mặn cho ĐBSCL nhưng làm cho người dân ở ĐBSCL không yên với việc xả bất thường.
Thứ ba, chất lượng đất canh tác đã xuống cấp. Ở vùng đầu nguồn (Đồng Tháp Mười và Tứ giác Long Xuyên) có hệ thống đê bao, kênh mương thoát lũ ra biển Tây ngăn nước lũ tràn vào đồng ruộng làm đất đai bị suy kiệt. Tất cả những điều này đang làm suy giảm chất lượng đất canh tác, với khoảng 30% nông dân ở Đồng bằng sông Cửu Long có đất canh tác bị thoái hóa.
Thách thức môi trường thứ tư là biến đổi khí hậu. Trong giai đoạn 2030-2040, dự báo nhiệt độ tối đa trung bình mùa khô tăng, lượng mưa giảm vào đầu vụ hè thu và vụ thu hoạch, mùa mưa bắt đầu muộn hơn, năng suất toàn vùng sẽ thấp hơn. giảm. Lũ lụt kéo dài, lốc xoáy, bão nhiệt đới gia tăng… Những tác động này sẽ ảnh hưởng đến năng suất nông nghiệp, gây nguy hiểm đến đời sống và sinh kế của người nông dân ĐBSCL vốn đã nhiều khó khăn, bấp bênh và khó khăn. Mực nước biển là một thách thức.
Trên đây là những thông tin tổng quan về “Thách thức phát triển vùng Đồng bằng sông Cửu Long – Trung tâm kinh tế mới” do Sen Vàng Group cung cấp. Hy vọng với những thông tin trên giúp chủ đầu tư, nhà đầu tư và doanh nghiệp bất động sản có cái nhìn tổng quan về những thách thức phát triển của Vùng. Ngoài ra để xem thêm các bài viết về vùng Đồng bằng Sông Cửu Long, anh chị, bạn đọc có thể truy cập trang web https://senvangdata.com.vn/.
Xem thêm nội dung các bài viết liên quan R&D chính:
Quy trình xây dựng và triển khai phòng R&D cho doanh nghiệp bất động sản
Xem thêm báo cáo thị trường các tỉnh, thành vùng ĐBSCL
Báo cáo nghiên cứu thị trường Thành phố Cần Thơ
Khóa học R&D bạn không nên bỏ qua:
Copyright © 2022 Bản quyền thuộc về SEN VÀNG GROUP